Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Bán giấc mơ Mỹ là như thế nào?

Ngay trong tour đi Mỹ, công ty này đã khá kỹ lưỡng trong việc tung ra các chương trình phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Theo đó, chỉ tính riêng du lịch Mỹ đã có tour đi các thành phố tại bờ Đông, tour đi các thành phố tại bờ Tây, du lịch kết hợp điểm tham quan hai bờ Đông - Tây, du lịch Hawaii, du lịch bằng du thuyền Bahamas, du lịch Nhật Bản - Mỹ...
Bất chấp thời buổi kinh tế khó khăn, dịch vụ tour đi Mỹ vẫn đang ăn nên làm ra.
Ông Nguyễn Song, một doanh nhân có tiếng hay đi du lịch, bước ra khỏi cửa tòa Lãnh sự Mỹ tại TP.HCM và mỉm cười.
Nụ cười báo hiệu rằng, ông đã được chấp thuận cho chuyến du lịch bờ Đông và bờ Tây nước Mỹ trong tháng 4/2013 sau những giờ phút phỏng vấn xin visa căng thẳng.
Càng khó càng khao khát
Ông Song chỉ là một trong số 3,5 triệu lượt du khách Việt Nam du ngoạn nước ngoài và chi tiêu đến 3,5 tỷ USD cho những chuyến đi này hàng năm (theo tiết lộ từ Hiệp hội Du lịch Việt Nam hồi cuối 2012).
Mức tăng trưởng của lượng du khách Việt Nam ra nước ngoài hiện lên đến 20%/năm.
Đáng nói hơn, số tiền này tương đương với một nửa doanh thu mà ngành du lịch Việt Nam có được khi đón nhận 6,8 triệu lượt khách quốc tế tới Việt Nam.
Dù cho những du khách Việt Nam lần đầu ra nước ngoài thường chọn các nước Đông Nam Á vì giá rẻ, miễn visa và dễ thu xếp thời gian, nhưng giấc mơ mà nhiều người mong đợi và khao khát nhất chính là du lịch Mỹ.
Hiện việc cấp visa vào Mỹ luôn kèm theo những điều kiện cực kỳ khó khăn. Nhưng chính vì vậy, du lịch Mỹ mặc nhiên được coi là một chuyến đi "đẳng cấp".
Cơ hội này đã được công ty du lịch Hoàn Mỹ tại TP.HCM khai thác triệt để. Công ty đã kiếm bộn tiền nhờ… bán giấc mơ Mỹ.
Lượng khách của Hoàn Mỹ khá ổn định với mỗi tháng khởi hành đều đặn từ 4 đến 6 đoàn, mỗi đoàn từ 15 - 60 khách. Với giá tour từ 59 triệu đến 87,5 triệu đồng cho một khách, doanh số của công ty này chỉ riêng với thị trường Mỹ quả là không nhỏ.
Càng khó càng kiếm được tiền
Việc khởi nguồn kiếm tiền từ thị trường Mỹ của Công ty Du lịch Hoàn Mỹ, theo Giám đốc Nguyễn Thế Khải, được tính từ mốc 2005 khi công ty quyết định tập trung vào tiếp thị tour Mỹ.
Đây có thể coi là một quyết định khó khăn, vì vào thời điểm đó du lịch Mỹ mới chỉ ở mức tiềm năng bởi mức chi phí cao đồng thời với các thủ tục không hề dễ dàng.
Trong bối cảnh đó, nhiều công ty khác đã chọn những thị trường dễ tính và dễ ăn hơn như: Thái Lan, Singapore, Trung Quốc hay Malaysia để làm bàn đạp…
Thêm nữa, nếu so với những tên tuổi lớn như Saigon Tourist, Vietravel, Fiditour … thì Hoàn Mỹ vẫn còn là lính mới. Thế nhưng, sau thời gian quảng bá mạnh, thị trường Mỹ mà công ty chọn càng ngày càng tăng trưởng tốt với mức bình quân 20%/năm.
Sự lựa chọn này đã chứng tỏ tính đúng đắn bởi Hoàn Mỹ đã chọn được thị trường ngách trong khi các nhà tour đón khách đi khu vực Đông Nam Á cạnh tranh ngày càng gay gắt, lợi nhuận giảm mạnh, thậm chí có tour chỉ còn lời vài ba đô la/khách.
Các tour đi Mỹ luôn giữ mức lợi nhuận đáng kể do tổng chi phí tour cao, thu hút những khách hạng sang, dám chi tiêu mạnh tay.
Câu chuyện còn trở nên bất ngờ và thú vị hơn khi 2 năm trở lại đây, trong bối cảnh nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi khủng hoảng kinh tế và nhiều ngành kinh doanh cũng như nhiều công ty du lịch sa sút thì Hoàn Mỹ lại tăng tốc ầm ầm.
Trong năm 2011 và 2012, công ty đã đón mỗi năm từ 10.000 đến 12.000 lượt khách. Trong đó có đến 70% là khách đi lần thứ 2 và thứ 3 trên nhiều tour khác nhau. Dịp Tết nguyên đán vừa qua, Hoàn Mỹ đã đón 200 khách đi Mỹ và ngay cả khi đã hết sạch cả vé mà khách vẫn còn đăng ký.
Bán giấc mơ không dễ
Tất nhiên, để phục vụ được các thượng khách dám bỏ khoản tiền ít thì cũng dăm sáu chục triệu đồng, nhiều cả trăm triệu đồng vào thị trường khó tính như Mỹ, Hoàn Mỹ cần phải nỗ lực với công tác quản trị.
Ông Nguyễn Thế Khải chia sẻ: "Gần 80% khách hàng của chúng tôi thuộc đối tượng trung niên, người cao tuổi, họ đi nhiều và trải nghiệm nhiều nên điều họ cần là một dịch vụ chất lượng, một tour du lịch được tổ chức chu đáo, kỹ lưỡng. Cái khó của nhà làm tour là phải hiểu khách hàng mong muốn điều gì để chọn dịch vụ cho phù hợp".
Ngay trong tour đi Mỹ, công ty này đã khá kỹ lưỡng trong việc tung ra các chương trình phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Theo đó, chỉ tính riêng du lịch Mỹ đã có tour đi các thành phố tại bờ Đông, tour đi các thành phố tại bờ Tây, du lịch kết hợp điểm tham quan hai bờ Đông - Tây, du lịch Hawaii, du lịch bằng du thuyền Bahamas, du lịch Nhật Bản - Mỹ...
Các hình thức mở tour cũng khá chi tiết và phù hợp với nhiều đối tượng như tour du học hè, du lịch kết hợp khảo sát trường học, tham gia hội chợ, triển lãm. Và năm 2013 này, Hoàn Mỹ đang chuẩn bị chào hàng tour Mỹ - Cuba.
Thực chất những gì mà Hoàn Mỹ đang làm không phải các công ty du lịch khác trên thị trường không biết hay không thực hiện, song để kiên trì và có tiến bộ từng bước về chất lượng như Hoàn Mỹ lại là việc không dễ.
Bộ phận chăm sóc khách hàng của Hoàn Mỹ được coi là nơi giám sát mọi hoạt động của tour nhằm giải quyết mau chóng các phàn nàn và thắc mắc từ khách hàng.
Điều đáng nói là việc chú trọng vào tour đi Mỹ của Hoàn Mỹ sau 5 năm từ 2005 - 2009 còn giúp cho công ty này phát triển thêm các tour tuyến mới tại châu Âu, Úc, Hàn Quốc…
Bởi vì có một yếu tố gắn bó khá chặt chẽ là nhiều du khách bị từ chối visa đi Mỹ đôi khi chỉ thiếu một trong các điều kiện là đã từng du lịch một vài nước phát triển. Khi đó, du lịch châu Âu, Hàn Quốc, Úc, Canada… là sự lựa chọn tốt nhất cho họ sau khi bị hụt giấc mơ Mỹ.
Ngược lại, nhiều du khách đã đi Mỹ vài lần cũng trở lại đi các tour này để hoàn tất bản đồ du lịch nước ngoài trong cuộc đời của họ. Hiện nay, mỗi tháng Hoàn Mỹ cũng đã tổ chức khoảng 3 đoàn đi tour Úc - Hàn, từ 1-2 đoàn đi EU, đi Anh... Vào mùa cao điểm cũng có thể mỗi tháng có 1 đoàn đi Canada…
Giờ đây, Hoàn Mỹ sẽ phải tiếp tục đứng trước thách thức sẽ giữ vững những ưu thế kinh doanh mà mình đang có như thế nào, cũng như dám mạnh dạn ra các quyết định kinh doanh linh hoạt và phù hợp ra sao một khi thị trường có những diễn biến mới? Bán giấc mơ Mỹ đem lại lợi nhuận lớn, nhưng để tiền đẻ ra tiền cần những quyết sách táo bạo và sáng suốt.

Thực trạng vấn đề: Khi Luật Quảng cáo vướn Luật Giao thông

Khi công ty này trình thông báo của Sở VH TTDL TP.HCM thì cảnh sát giao thông không chấp nhận và giải thích rằng, thông báo trên không hạn chế được hiệu lực của Nghị định 71/2012/NĐ - CP về xử phạt vi phạm giao thông đường bộ. Họ đề nghị công ty phải có "Giấy xác nhận doanh nghiệp đã đăng ký thực hiện quảng cáo".
Ông Nguyễn Văn Minh, Phó giám đốc Sở VHTTDL TP.HCM cho biết: Sau khi Luật Quảng cáo có hiệu lực từ ngày 1/1/2013, ngày 3/1/2013, Cục Văn hóa Cơ sở - Bộ VHTT&DL đã có văn bản số 04/VHCS - QCTT hướng dẫn tổ chức triển khai thực hiện. Theo đó, tại Mục 2 nêu:
"Bãi bỏ việc cấp giấy phép thực hiện quảng cáo trên bảng biển, băng rôn, màn hình đặt nơi công cộng, vật phát quang, vật thể trên không, dưới nước, phương tiện giao thông, vật thể di dộng khác".
Tại TP.HCM, Sở VHTT&DL đã thực hiện nghiêm túc Luật Quảng cáo, cụ thể, đối với việc quảng cáo trên các phương tiện giao thông, chủ phương tiện tự thực hiện, tự chịu trách nhiệm đối với việc quảng cáo trên các phương tiện giao thông của mình, Sở chỉ thực hiện quản lý nhà nước về quảng cáo theo phương pháp hậu kiểm.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, việc quảng cáo trên các phương tiện giao thông cần đúng theo quy định tại Khoản 1 Điều 32, quy định:
"Việc quảng cáo trên phương tiện giao thông phải tuân thủ các quy định của luật này và pháp luật về giao thông". Và tại Khoản 2, Điều 32 quy định:
"Không được thể hiện sản phẩm quảng cáo ở mặt trước, mặt sau và trên nóc của phương tiện giao thông. Sản phẩm quảng cáo không được vượt quá 50% diện tích mỗi mặt được phép quảng cáo. Việc thể hiện biểu trưng, logo, biểu tượng của chủ phương tiện giao thông hoặc hãng xe trên phương tiện giao thông phải tuân thủ các quy định của pháp luật về giao thông".
Theo các đại biểu tham dự cuộc họp, chính vì quy định tại Điều 32 mà các chủ phương tiện đang gặp rắc rối khi thực hiện việc quảng cáo trên các phương tiện của mình.
Cụ thể là khi thực hiện quảng cáo các sản phẩm lên thân xe - dù tuân thủ đúng quy định "không được vượt quá 50% diện tích mỗi mặt được phép quảng cáo", nhưng do màu sơn của sản phẩm khác màu xe, do đó đã vi phạm Luật Giao thông và vì vậy bị lực lượng cảnh sát giao thông thổi phạt.
Ông Nguyễn Văn Minh đã dẫn chứng trường hợp cụ thể là Công ty Liên doanh TNHH Nippon Express (Việt Nam) là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ giao nhận hàng hóa, có 42 xe vận chuyển bằng đường bộ.
Theo thông báo hướng dẫn của Sở VH TTDL TP.HCM, công ty này đã thực hiện đúng nội dung quảng cáo trên xe, nhưng khi các xe này (mang biển số TP.HCM) lưu thông qua các tỉnh, thành khác thì bị cảnh sát giao thông phạt.
Cụ thể ngày 18/3/2013, xe tải mang biển kiểm soát 52LD - 3993 bị cảnh sát giao thông Hải Dương phạt về lỗi hết hạn quảng cáo trên phương tiện giao thông vận tải.
Khi công ty này trình thông báo của Sở VH TTDL TP.HCM thì cảnh sát giao thông không chấp nhận và giải thích rằng, thông báo trên không hạn chế được hiệu lực của Nghị định 71/2012/NĐ - CP về xử phạt vi phạm giao thông đường bộ. Họ đề nghị công ty phải có "Giấy xác nhận doanh nghiệp đã đăng ký thực hiện quảng cáo".
Vấn đề được đặt ra là liệu Luật Quảng cáo có mâu thuẫn với Luật Giao thông đường bộ? Theo các đại biểu dự họp: Các bộ ngành liên quan như: Bộ Công an, Bộ VH TTDL, Bộ Giao thông - Vận tải cần sớm có văn bản liên tịch hướng dẫn thực thi Luật Quảng cáo thống nhất trên cả nước, chứ như hiện nay, TP.HCM cho phép quảng cáo trên các phương tiện giao thông cộng cộng theo Luật Quảng cáo, trong khi các nơi khác lại "bắt giò” cánh lái xe theo Nghị định 71 nêu trên thì rất khó cho các doanh nghiệp.

Chia sẻ với bạn vấn đề : Nhổ bê tông - Trồng cột đất

Vì vậy, với số vốn 500 tỷ đồng cổ phần của Kusto, Cotecons đã có nguồn lực đủ mạnh để tham gia lĩnh vực cơ sở hạ tầng (mua sắm thiết bị, đầu tư nghiên cứu và chuẩn bị vốn đối ứng cho các dự án), đồng thời, có thêm khoản tiền dự phòng để tránh tình hình biến động kinh tế và thị trường khó dự đoán như hiện nay".
Một loạt thương vụ bán lại công ty, nhà máy đã được thực hiện khiến DN có vốn FDI hiện chiếm đến 33% công suất toàn ngành VLXD. Các DN trong nước đã để các mỏ đất sét, cát và fenspat... vào tay đối thủ.
Bán dại: Chết ngộp vì hàng tồn
Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, trong năm 2012, có tới 17.000 DN ngành xây dựng thua lỗ trên tổng số gần 56.000 DN đang hoạt động. Tỷ lệ DN dừng hoạt động hoặc giải thể cũng tăng hơn 9% so với năm trước. Con số này tiếp tục tăng trong năm 2013 khi thị trường bất động sản vẫn tiếp tục lao dốc và chưa có dấu hiệu khởi sắc nào.
Nói về tình cảnh của các DN ngành VLXD, ông Trần Văn Huynh, Chủ tịch Hội VLXD Việt Nam, cho biết: Tính đến nay, lượng clinker, xi măng còn tồn kho khoảng trên 3 triệu tấn (trên 3.000 tỷ đồng). So với năm 2011, sản lượng kính tấm xây dựng giảm 30%.
Chỉ riêng 7 DN sản xuất kính thì hàng tồn kho tính đến cuối năm 2012 đã lên tới 60 triệu m2, tương đương sản lượng kính sản xuất trong 4 tháng; kính nổi tồn kho 57 triệu m2. Gạch ốp lát tồn kho 60 triệu m2 và trên 1 triệu sản phẩm sứ vệ sinh (tương đương khoảng trên 3.000 tỷ đồng) chưa bán được.
Ngay như gạch tuynel, loại gạch truyền thống xây dựng chiếm 90% với mức tiêu thụ 20 tỷ viên/ năm hiện cũng đang ế hàng. Vật liệu xây không nung như gạch nhẹ, gạch nhẹ bê tông khí chưng áp AAC... chỉ tiêu thụ 60 - 70% sản lượng...
Chẳng hạn, một số công ty sản xuất vật liệu xây không nung như Công ty CP Vinaconex 7, Công ty Vật liệu xây dựng BMC, Công ty V- Block, E- Block... vẫn chưa bán được sản phẩm ra thị trường mà chủ yếu phục vụ cho công trình của công ty.
Ông Nguyễn Thanh Hùng, Phó tổng giám đốc Công ty BMC, cho biết: "Tuy nhà máy sản xuất gạch ceramic và gạch ép của BMC đã chạy được hơn 60% công suất thiết kế nhưng mức tiêu thụ vẫn còn rất thấp".
Theo lý giải của ông Huynh, tình trạng này là do những năm qua ngành VLXD phát triển ồ ạt, khi thị trường suy thoái, giá nguyên vật liệu tăng cao, nội tại năng lực cũng như tài chính của các DN yếu dần do quy mô nhỏ, không có điều kiện tái đầu tư, cải tiến công nghệ để đưa ra sản phẩm mới, giảm giá thành.
Vì vậy, một số công ty phá sản hoặc phải bán. Song, nguyên nhân chủ quan là sự bất cập nội tại của ngành, trước hết là sự buông lỏng quản lý, thiếu định hướng quy hoạch phát triển.
Bán tống gặp săn mua
Sự hấp hối của ngành VLXD Việt Nam là cơ hội của các nhà đầu tư nước ngoài. Với thế mạnh về tài chính (lãi suất vay chỉ vài %), nhiều DN nước ngoài đã nhanh chóng chớp thời cơ, thực hiện các thương vụ thâu tóm. Sôi nổi nhất là các thương vụ mua bán trong ngành xi măng.
Cụ thể, Tập đoàn Seman Gresik (Indonesia) đã mua lại 70% cổ phần Công ty Xi măng Thăng Long thuộc Công ty Geleximco với giá 230 triệu USD, bao gồm cả dự án xi măng Thăng Long mở rộng và dự án xi măng An Phú - Bình Phước, đồng thời mua lại 70% cổ phần Công ty Xi măng Chinfon Hải Phòng.
Tương tự, Công ty Xi măng Hòa Phát (Hà Nam), Đồng Bành (Lạng Sơn) cũng phải bán lại cho Tập đoàn Xi măng The Vissai. Tuy không rao bán, nhưng khi Công ty Xi măng Fico có kế hoạch tăng vốn điều lệ thêm 30%, các công ty nước ngoài cũng đang xếp hàng giành quyền ưu tiên.
Ở lĩnh vực gạch, thép, gốm sứ, kính... việc mua bán được dự đoán không kém sôi động khi rất nhiều DN trong lĩnh vực này đang loay hoay thoát khó hoặc hoạt động cầm chừng. Điển hình là cuối năm 2012, Prime, thương hiêu gạch ốp lát có tên tuổi tại Việt Nam, cũng đã bán 85% cổ phần cho Tập đoàn Siam Cement Group (Thái Lan) với giá 7,2 tỉ Bath (234 triệu USD).
Trước đó, Siam Cement cũng đã mua 99% cổ phần Nhà máy Xi măng Bửu Long. Gần đây, Công ty Gạch Granite Đồng Nai đã bán nhà máy cho Công ty Gạch men Bách Thành... Tháng 2/2013, Thép Ninh Bình cũng đã bán 51% số cổ phần cho Công ty CP Đầu tư tổng hợp Hà Nội và sau đó bán lại cho một tập đoàn thép của Nhật.
Thương hiệu Thép Pomihoa của Công ty TNHH Cán thép Tam Điệp cũng bán 70% cổ phần cho Tập đoàn Thép Kyoei (Nhật Bản) và đã đổi tên thành Công ty Thép Kyoei Việt Nam... Ngoài ra, một số DN thép như Vạn Lợi, gạch Vĩnh Đức Sài Gòn cũng đang chào bán nhà máy nhưng chưa thành...
Có thể thấy, sau các thương vụ mua bán, cái lợi của bên bán là trút bỏ được nợ nần, có thêm nguồn vốn để đầu tư vào lĩnh vực cốt lõi, còn bên mua thì đáp ứng được chiến lược mở rộng sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, mua được các công ty với giá rẻ hơn trước đây.
17.000
Theo bo co của Bộ Xy dựng, trong năm 2012 cĩ tới 17.000 DN ngnh xy dựng thua lỗ trn tổng số gần 56.000 DN đang hoạt động. Tỷ lệ DN dừng hoạt động hoặc giải thể cũng tăng hơn 9% so với năm trước.
Song món lời nhất của bên mua là được các thương hiệu và thị trường có sẵn, mặt khác so với việc xây dựng nhà máy mới thì phương án thâu tóm này không chỉ có lợi về tài chính mà còn cả về thời gian và thị phần.
Tuy mua bán là xu hướng tất yếu của thị trường, nhưng theo thống kê của Hội VLXD, tỷ lệ các công ty có vốn FDI hiện chiếm đến 33% công suất toàn ngành.
Ông Huynh cho biết: "Việc mua bán tuy có giải quyết được khó khăn trước mắt cho DN trong nước, nhưng về lâu dài, một khi các công ty nước ngoài giữ thị phần chi phối, các DN trong nước sẽ rất dễ mất thể chủ động do không đủ lực để điều tiết thị trường và bình ổn giá. Chưa kể, mục đích của các công ty này là xuất khẩu và đương nhiên, nguồn lợi nhuận thu về của họ cũng được chuyển ra nước ngoài".
Theo ông Huynh, hậu quả là chúng ta trở thành một công trường đầy khói bụi, ô nhiễm, còn các công ty nước ngoài lại được khai thác xuất khẩu tài nguyên, làm chủ nguồn nguyên liệu quý. Chẳng hạn, khi mua lại nhà máy gạch Prime, Tập đoàn Siam cũng được sở hữu các tài sản chủ yếu như mỏ đất sét, cát và fenspat, các nguyên liệu thô chủ yếu để sản xuất gạch ceramic.
Nghiêm trọng hơn là có thể tác động tới an ninh biên giới, cụ thể là các dự án nằm ở vùng nguyên liệu đá vôi hiếm như ở vùng Đông Nam bộ, ở vùng biên giới liên quan đến an ninh quốc gia như nhà máy xi măng Fico, An Phú - Bình Phước, Thăng Long... đều nằm ở khu vực biên giới, cảng nước sâu và có vùng đá vôi rất tốt.
Nếu bán các dự án này, trong tương lai chúng ta sẽ không có nguồn đá vôi vì hiện tại đá vôi của Việt Nam cũng không nhiều, khả năng thiếu xi măng ở miền Nam sẽ rất dễ xảy ra.
Ông Phạm Chí Cường, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, cho biết thêm, không ít các thương vụ mua bán được thỏa thuận thanh toán theo phương án trả dần, không trả liền một cục tiền nên DN sau khi bán nhà máy vẫn khó khăn.
Ông Nguyễn Quang Cung, Phó chủ tịch Hội VLXD Việt Nam, cũng cho rằng, sau khi mua lại Prime, SCG sẽ có tổng công suất gạch ceramic đạt 225 triệu m2 và đạt chiến lược tăng cường sức mạnh cạnh tranh của SCG ở khu vực Đông Nam Á.
Song, cái khó là Thái Lan hiện đang yếu hơn Việt Nam về lĩnh vực gạch ceramic và gốm sứ, mặt khác, tổng sản lượng công suất thiết kế của ceramic và gốm sứ là 425 triệu/m2, trong đó riêng sản lượng ceramic đã chiếm 94m2, vậy nên việc Prime bán lại cho Siam Group, đồng nghĩa chúng ta sẽ phải cạnh tranh rất khốc liệt với Thái Lan về thị trường xuất khẩu trong khu vực.
Mua khôn
Các vụ mua bán và chuyển hướng của DN ngành xây dựng càng quyết liệt hơn: CapitaLand mua lại cổ phần và cả dự án của Quốc Cường Sài Gòn và Công ty Khang Điền Sài Gòn để tạo quỹ đất và chuyển hướng phân khúc nhà ở cho người thu nhập trung bình.
Cotecons thoái vốn toàn bộ cho Quỹ Dragon Capital để bắt tay với Tập đoàn Đầu tư Kusto Group nhằm đạt mục tiêu doanh thu 1 tỷ USD trong 7 năm tới.
Một trong những thương vụ được cho là có lợi cho cả hai bên là thương vụ CapitaValue Homes Limited, một đơn vị trực thuộc Tập đoàn CapitaLand, mua lại 65% cổ phần của Công ty TNHH Quốc Cường Sài Gòn (công ty con của Quốc Cường Gia Lai) với mức giá là 121,2 tỷ đồng.
Trước đó, CapitaValue Homes Limited cũng đã mua lại 70% cổ phần dự án chung cư tại quận 2, TP.HCM của Công ty Khang Điền Sài Gòn. Qua các thương vụ này, CapitaLand không chỉ giải được bài toán kinh doanh vào thời điểm căn hộ cao cấp đang chựng lại, mà còn thực hiện được chiến lược chuyển hướng đầu tư vào phân khúc nhà ở cho người có thu nhập trung bình.
Ông Yip Hoong Mun, Tổng giám đốc Capitaland, cho biết: "Tuy thế mạnh của chúng tôi là một công ty xây dựng có kinh nghiệm và tiềm lực, nhưng điểm yếu của Capitaland là không có nhiều quỹ đất. Vì vậy, việc bắt tay với Khang Điền, Quốc Cường Gia Lai đã giúp chúng tôi có được quỹ đất để thực hiện chiến lược, đồng thời tạo được lợi thế cạnh tranh hơn so với các dự án khác".
Sau hai năm bán cổ phần cho Tama Global Investment Pte.Ltd., Cotecland đã củng cố được thế mạnh nhờ sự hỗ trợ của Tama Home trong việc chuyển giao các công nghệ mới trong lĩnh vực xây dựng và quản lý xây dựng bất động sản.
Trong đó, cái lợi lớn nhất, theo ông Đào Đức Nghĩa, Chủ tịch Cotecland "uy tín của Cotecland cũng được nâng lên, nhất là hoạt động kinh doanh của công ty ổn định trong giai đoạn thị trường bất động sản, xây dựng ngưng trệ”.
Đồng thời, công ty thực hiện được chiến lược đặt ra là đầu tư sang lĩnh vực y tế, đào tạo nguồn nhân lực y tá, cấp dưỡng vừa phục vụ cho hệ thống bệnh viện của công ty, vừa tiến tới xuất khẩu y tá có tay nghề cao sang các nước Myanmar, Singapore...
Ngoài dự án bệnh viện Đồng Nai lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á với 1.400 phòng do Cotecland làm chủ, cuối năm 2012, Cotecland đã hợp tác với Shiny (Nhật Bản) để triển khai các dự án đầu tư trong lĩnh vực y tế và nghỉ dưỡng, văn phòng cho thuê và căn hộ cao cấp.
Đồng thời, là cầu nối để huy động vốn cho các dự án Blue Sapphire Resort, dự án Bệnh viện Trường Lâm tại Hà Nội và một số dự án khác. Ông Nghĩa nói thêm, việc chuyển hướng phát triển nguồn doanh thu trọng yếu của công ty, từ lĩnh vực kinh doanh bất động sản sang lĩnh vực xây lắp, được xem là thành công lớn trong hoạch định chiến lược của Hội đồng quản trị Cotecland.
Giá trị các gói thầu đạt được đối với các dự án từ nay đến 2015 khoảng 1.000 tỷ đồng sẽ đảm bảo doanh thu, lợi nhuận cao và ổn định của công ty, từ nay đến năm 2016.
Một hợp đồng gần đây của Công ty CP Xây dựng Cotecons và Tập đoàn Đầu tư Kusto Group cũng được giới chuyên môn đánh giá cao tính lợi ích cho cả hai bên. Cụ thể, phía Kusto đã hiện thực mục tiêu thâm nhập và có thể chiếm lĩnh thị trường Việt Nam vốn có rất nhiều tiềm năng về nhu cầu xây dựng hạ tầng, đồng thời có thêm đối tác uy tín để thi công những dự án của tập đoàn này tại Việt Nam.
Ông Nguyễn Bá Dương, Tổng giám đốc Cotecons, khẳng định: "Ưu thế lớn nhất để Kusto chọn hợp tác với Cotecons đó là định hướng chiến lược của chúng tôi sẽ trở thành công ty dẫn đầu thị trường và là công ty có khả năng vươn ra tầm khu vực.
Ngược lại, khi bắt tay với Kusto, chúng tôi cũng đã nhìn thấy thế mạnh của tập đoàn này là xây dựng cơ sở hạ tầng, lĩnh vực này cũng chính là chiến lược Cotecons đang đặt ra cho những năm tới.
Vì vậy, với số vốn 500 tỷ đồng cổ phần của Kusto, Cotecons đã có nguồn lực đủ mạnh để tham gia lĩnh vực cơ sở hạ tầng (mua sắm thiết bị, đầu tư nghiên cứu và chuẩn bị vốn đối ứng cho các dự án), đồng thời, có thêm khoản tiền dự phòng để tránh tình hình biến động kinh tế và thị trường khó dự đoán như hiện nay".
Theo giới phân tích thị trường, việc chọn Kusto cũng là một tính toán khôn ngoan của Cotecons, bởi trước đó, công ty này đã giảm tỷ lệ sở hữu quỹ nước ngoài xuống còn 15%, trong đó, đã thoái vốn toàn bộ cho Quỹ Dragon Capital, bởi xét về tính bền vững, các quỹ này chỉ là nhà đầu tư tài chính, việc hợp tác đơn thuần chỉ quan tâm đến doanh thu, lợi nhuận, dòng tiền...
Trong khi đó, định hướng chiến lược lâu dài của Cotecons là bền vững, các "mối lương duyên" với họ phải là người tìm kiếm nguồn công trình, mở rộng quan hệ khách hàng, bổ sung công nghệ, con người, kinh nghiệm quản trị nên Kuston phù hợp tiêu chí chọn nhà đầu tư chiến lược của Cotecons.
"Với sự góp sức của Kusto, tham vọng của Coteccons là đạt doanh thu 1 tỷ USD trong vòng 7 năm tới và sẽ tiến tới thực hiện kế hoạch M&A với các công ty xây dựng nhỏ hơn để hiện thực hóa kế hoạch hợp nhất thị trường", ông Dương tiết lộ.
Cũng theo nguồn tin của Doanh Nhân Sài Gòn, Công ty Lĩnh Phong Conic cũng đã bán công ty cho một tập đoàn trong nước, tuy nhiên cụ thể thương vụ này vẫn chưa được công bố chính thức.
Được biết, sau khi thực hiện vài dự án căn hộ, Lĩnh Phong Conic lâm vào tình trạng khó khăn từ nhìều phía, mất kiểm soát về vốn, nợ vay ngân hàng khó thanh khoản nên phải bán công ty.
Còn lợi ích của bên mua lại Conic được cho rằng, khả năng sinh lợi của các dự án của Lĩnh Phong Conic về lâu dài vẫn có khả năng và dẫu sao công ty này vẫn có thương hiệu trong lĩnh vực xây dựng.

Có nên hay không đầu tư sách điện tử: Nước cờ mạo hiểm

Trong khi đó, với thế mạnh của một công ty công nghệ, Lạc Việt đã số hóa khoảng 5.000 đầu sách, đồng thời tự phát triển định dạng sách điện tử riêng và bộ đọc LacViet-reader nhằm tránh sao chép… Để thu hút khách hàng, công ty này còn đưa ra hình thức gói đọc sách trực tuyến, từ mức nạp 10.000 đồng được đọc trong vòng 10 ngày, đến mức 50.000 đồng để đọc thoải mái toàn bộ kho sách trong vòng ba tháng.
Có rất nhiều lý do khác nhau khiến việc đầu tư vào lĩnh vực sách điện tử của nhiều doanh nghiệp trong nước có thể trở thành một bước đi mạo hiểm.
Là một trong những người đi tiên phong trong việc đưa sách điện tử (ebook) có bản quyền ra thị trường Việt Nam, ông Trần Trọng Thành, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Dịch vụ trực tuyến Vinapo luôn hi vọng ebook có thể phát triển mạnh mẽ. Ước mơ, hi vọng là vậy, nhưng đầu tư vào lĩnh vực mới mẻ này quả thực là một nước cờ mạo hiểm.
Ảnh: T.L
Người hối hả, kẻ hững hờ
Theo Juniper Research, doanh số ebook bán ra trên thế giới ước đạt gần 10 tỉ USD vào năm 2016
Ông Thành cho biết, tổng doanh số của ebook tại thị trường Việt Nam so với sách giấy hiện chưa được 1% vì không phải cuốn sách nào cũng có phiên bản điện tử. Với những ebook xuất bản song song với sách giấy, doanh số có thể chiếm 5% so với bản cứng, cá biệt có những cuốn có thể cao hơn chút ít.
Giá sách điện tử chỉ bằng khoảng 30-50%, sách mới xuất bản có giá bán ra bằng 70% so với sách giấy. Theo tính toán của các chuyên gia, nếu doanh nghiệp đưa vào kinh doanh khoảng 1.000 đầu sách, bán ra với giá 5-10.000 đồng/bản, mỗi đầu sách có khoảng 1.000 lượt mua thì đã có thể thu về 5-10 tỷ đồng.
Đây quả thực là một con số hấp dẫn, khiến cho số doanh nghiệp tham gia vào sân chơi này ngày càng nhiều. Ngoài Alezaa - trang bán sách trực tuyến được xem là lớn nhất thị trường trong nước hiện nay do Vinapo đầu tư, thì những cái tên như Lạc Việt, Công ty TNHH sách điện tử Trẻ (Ybook), Viettel… cũng đã khiến cho thị trường trở nên sôi động hơn.
Để thu hút khách hàng, mỗi đơn vị đều lựa chọn cho mình những chiến lược marketing khác biệt. Là nhà đầu tư của Alezaa, ông Thành cho biết, trong thời gian tới sẽ hướng tới đối tượng khách hàng là sinh viên và khối làm việc trong văn phòng, bởi họ là những người tiên phong, có thiết bị (laptop, PC, máy tính bảng, smart phone…) và có thói quen thanh toán trực tuyến. Nếu như ở thời điểm cuối năm 2011, lượng sách trên Alezaa mới khoảng 800 cuốn thì đến năm 2012 đã lên tới con số 3.000 với đủ thể loại từ văn học, khoa học cho tới tài liệu, văn bản luật hay giáo trình.
Trong khi đó, với thế mạnh của một công ty công nghệ, Lạc Việt đã số hóa khoảng 5.000 đầu sách, đồng thời tự phát triển định dạng sách điện tử riêng và bộ đọc LacViet-reader nhằm tránh sao chép… Để thu hút khách hàng, công ty này còn đưa ra hình thức gói đọc sách trực tuyến, từ mức nạp 10.000 đồng được đọc trong vòng 10 ngày, đến mức 50.000 đồng để đọc thoải mái toàn bộ kho sách trong vòng ba tháng.
Viettel thì lại sẵn sàng áp dụng chính sách khuyến mãi cho khách hàng như mỗi đầu sách tại Anybook có giá chỉ từ 2.000 đồng đến 15.000 đồng, thấp hơn hẳn so với các nhà phân phối sách điện tử khác trên thị trường. Hơn nữa, chi phí thanh toán cho các đầu sách được trừ trực tiếp vào tài khoản di động mà không yêu cầu khách hàng phải có tài khoản ngân hàng, tài khoản Master/Visa hoặc ví điện tử.
Trong khi các công ty công nghệ đang hối hả và hi vọng có thể tạo ra được một sức bật trên thị trường thì những người làm kinh doanh của các nhà xuất bản, công ty phát hành sách lại tỏ ra dè dặt hơn nhiều.
Khi được hỏi về việc một nhà xuất bản lớn như Alphabook kinh doanh ebook như thế nào, ông Trần Hồng Giang, Giám đốc dự án Công ty cổ phần Alpha không ngần ngại tiết lộ: "Trong năm nay, chúng tôi vẫn chưa quyết định đầu tư vào việc phát triển kinh doanh dịch vụ ebook mà mới chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm đối tác để hợp tác cung cấp nội dung cho họ. (Alpha Books cung cấp nội dung, đối tác sẽ số hóa nội dung và bán hàng - TG). Doanh số thu về là từ 40-70% tổng doanh số ebook bán ra. Tuy nhiên, tổng doanh số thực tế mà Alpha Books thu được về trong hai năm vừa qua là một con số rất nhỏ, không đáng kể. Thời gian sắp tới chúng tôi vẫn tiếp tục quan tâm tới ebook, nhưng chỉ ở mức độ hợp tác chứ chưa đầu tư".
Theo ông Giang, Alphabook có thế mạnh về bản quyền sách, nhưng lại có điểm yếu về công nghệ nên khi tham gia sân chơi này sẽ có nhiều bất lợi.
Khó thay đổi thói quen
Thói quen đọc miễn phí chính là rào cản lớn nhất cho sự phát triển của ebook
Lo ngại của Alphabook là hoàn toàn có cơ sở khi thói quen thích đọc sách giấy của người Việt vẫn khó mà thay đổi. Bằng chứng là tại hội chợ sách quốc tế Việt Nam lần thứ 4 diễn ra cách đây ít lâu gian hàng của Alezaa bị lọt thỏm giữa các quầy sách giấy khác.
Lý do không phải là do gian hàng này không được trang trí đẹp hay nhà đầu tư không chú trọng công tác quảng bá mà bởi lẽ, bạn đọc vẫn không quen với việc sách được lưu giữ trong hệ thống máy tính và đọc nó trên các thiết bị cầm tay.
Ngoài nguyên nhân chính trên, một chuyên gia phụ trách ebook của Lạc Việt còn viện dẫn một số lý do khiến ebook tại Việt Nam chưa thể phát triển. Chẳng hạn, không công ty Việt Nam nào dám phát triển ebook trên các máy đọc sách chuyên dụng dùng loại màn hình e-link (Amazon Kindle hay Nook) do lo ngại về mất cắp bản quyền.
Hiện tại tất cả các công ty ebook ở Việt Nam chỉ cho đọc trên các smartphone, Tablet, PC màn hình màu thông thường. "Thói quen đọc chính là rào cản lớn nhất. Nhiều người cũng thích đọc sách điện tử, nhưng họ thích đọc "chùa" mà không muốn bỏ tiền ra mua ebook", ông Trần Trọng Thành nhấn mạnh.
Thêm vào đó, một lượng ebook không có bản quyền khổng lồ được phát tán tràn lan trên các trang mạng khiến cho việc kinh doanh sách đã khó lại càng khó hơn. Ngay cả những nhà sách có tiếng cũng phải chịu ngậm bồ hòn làm ngọt khi phát hiện ra sách của mình được đưa lên thành sách điện tử hoặc cho không hoặc được bán với giá bèo bọt.
Để tháo gỡ tình trạng trên, trước mắt những công ty kinh doanh trong lĩnh vực này vẫn đang nỗ lực tìm kiếm, nâng cấp hệ thống công nghệ để ngăn chặn tình trạng "ăn cắp bản quyền". Nhưng phải thừa nhận rằng, việc này phụ thuộc rất nhiều vào ý thức của người đọc.
Rõ ràng khó khăn trước mắt của những người làm kinh doanh ebook vẫn còn rất nhiều. Tuy thế, khi được hỏi, liệu có đủ sức để theo đuổi một cuộc chơi đầy tính mạo hiểm như thế này, ông Thành vẫn tỏ ra hết sức lạc quan khi cho rằng, ebook "sẽ bùng nổ trong năm tới", khi bạn đọc bắt đầu nhận ra sự tiện lợi của việc đọc sách điện tử, cũng như số lượng sách được số hóa tăng lên ngày một nhiều hơn.

Cùng tìm hiểu về xuất siêu hay thặng dư sản phẩm?

Theo ông Nguyễn Cẩm Tú, thứ Trưởng Bộ Công Thương, sở dĩ xuất siêu nước ta không bền vững là do còn nhiều hạn chế như quy mô xuất khẩu còn nhỏ, xuất khẩu và nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI tăng mạnh hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong nước, tỷ lệ lớn nhập khẩu các nguyên nhiên liệu và thiết bị... ngoài ra, cơ sở hạ tầng, những thủ tục hành chính rườm rà cũng là một trong những yếu tố hạn chế đối với tăng trưởng xuất khẩu.
Sản xuất đồ gỗ ở Công ty Mifaco-Bình Dương
Xuất siêu: Phải từ năng lực cạnh tranh
ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, xuất siêu trước mắt là một hiện tượng đáng mừng, tuy nhiên nguyên nhân được cho là do giảm nhập, sản xuất và tiêu dùng trong nước giảm nên việc nhập khẩu nguyên liệu, thiết bị sản xuất không bằng những năm trước; không phải do năng lực cạnh tranh và năng suất của nền kinh tế được cải thiện. Thế nên, xét về lâu dài thì xuất siêu hiện nay bị đánh giá là thiếu tính bền vững.
Phân tích cơ cấu ngành hàng xuất khẩu năm vừa qua cũng có thể thấy rõ sự chưa bền vững này. Nếu nhìn lại các khu vực xuất nhập khẩu trong năm qua, tăng trưởng xuất khẩu cao chủ yếu đạt được ở khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khi xuất khẩu đạt 64,05 tỷ USD trong tổng số 124 tỷ USD, tăng 33,8% với các mặt hàng như: điện tử, máy tính và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện; hàng dệt may, giày dép...
Các mặt hàng trên đều là nhóm hàng có tỷ trọng gia công cao, nghĩa là hiệu quả và lượng ngoại tệ thực thu thấp. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu của khối doanh nghiệp trong nước đạt 42,3 tỷ USD, chỉ tăng 1,3% so với năm 2011.
Bên cạnh đó, năm 2012 được đánh giá là năm thành công trong xuất khẩu nông sản. Xuất khẩu gạo, cà phê... đều tăng, tuy nhiên chỉ "tăng về lượng", còn về giá vẫn giảm so với năm trước. Việc xuất khẩu một lượng lớn nông sản, bất chấp giá thấp (điển hình là gạo) đã mang về một lượng ngoại tệ đáng kể cho Việt Nam.
Nhìn lại năm 2012, lần đầu tiên trong lịch sử 20 năm qua, Việt Nam mới lại xuất siêu với thặng dư thương mại đạt 780 triệu USD. Xét về cơ cấu nhóm hàng, kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng mạnh nhất, 49,9% (so với năm 2011). Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính 34,1%. Nhóm hàng nông lâm sản chiếm 15,4% (tăng 18%). Thủy sản chiếm 5,4% (tăng 0,7%) với nhiều mặt hàng đạt kim ngạch tăng cao so với năm 2012.
Tuy nhiên vấn đề "chảy máu nông sản" trước tình hình xuất siêu lại là một câu hỏi lớn đáng được quan tâm giải quyết trong thời gian tới, vì nông sản được xem là mặt hàng thiết yếu ảnh hưởng nhiều đến các yếu tố an ninh lương thực, ổn định xã hội.
Tóm lại, Việt Nam xuất siêu, một phần nhờ xuất khẩu tăng cao, tuy nhiên, việc nhập khẩu nguyên, nhiên liệu, và thiết bị tăng cao làm cho mối lo ngại sự phụ thuộc vào nhập khẩu đối với những mặt hàng này ngày càng lớn hơn.
Đặc biệt, xuất khẩu hàng loạt các mặt hàng thô (khoáng sản) và nông sản khiến Chính phủ phải suy nghĩ về vấn đề cốt yếu của "xuất siêu" và tính bền vững của vấn đề này.
Xuất khẩu 2013: Phải tăng giá trị thặng dư
Bộ Công Thương dự báo xuất khẩu dự kiến năm 2013 sẽ đạt khoảng 126 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2012, trong khi kim ngạch nhập khẩu đạt 136 tỷ USD, dự báo tăng 19%. Như vậy, nếu tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2013 đúng như dự kiến thì cán cân thương mại nước ta sẽ trở về với nhập siêu 8%, so với xuất siêu 780 triệu USD năm 2012.
Theo ông Nguyễn Cẩm Tú, thứ Trưởng Bộ Công Thương, sở dĩ xuất siêu nước ta không bền vững là do còn nhiều hạn chế như quy mô xuất khẩu còn nhỏ, xuất khẩu và nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI tăng mạnh hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong nước, tỷ lệ lớn nhập khẩu các nguyên nhiên liệu và thiết bị... ngoài ra, cơ sở hạ tầng, những thủ tục hành chính rườm rà cũng là một trong những yếu tố hạn chế đối với tăng trưởng xuất khẩu.
Trong năm 2013, những khó khăn này chưa có dấu hiệu được tháo gỡ, thế nên "trở lại nhập siêu" cũng là một điều dễ hiểu.
Cùng với đó, nhận định của một số nhà chuyên môn, năm 2013 nền kinh tế thế giới sẽ tiếp tục khó khăn, diễn biến phức tạp và khả năng tăng trưởng không cao hơn nhiều so với năm 2012. Chính vì vậy, tình hình xuất khẩu của các doanh nghiệp sẽ gặp không ít khó khăn do ở một số thị trường, nhu cầu nhập khẩu vẫn chưa thể phục hồi.
Hơn nữa, như đã để cập, phần lớn nguyên vật liệu sản xuất của nhiều mặt hàng xuất khẩu vẫn lệ thuộc vào nhập khẩu, cho nên chi phí sản xuất của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước khác, điều này đã giảm sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trong khu vực và trên thế giới.
Không những thế, một số mặt hàng cũng vấp phải các rào cản thương mại, rào cản kỹ thuật ở các thị trường nhập khẩu. Gần nhất là vụ kiện yêu cầu áp thuế chống trợ cấp đối với "mặt hàng tôm nước ấm đông lạnh" nhập khẩu từ 7 quốc gia, trong đó có Việt Nam của Liên minh tôm vùng vịnh Hoa Kỳ.
Hay sắp tới, Việt nam sẽ đối diện với nhiều nguy cơ bị kiện chống bán phá giá từ Mỹ với mặt hàng giấy và gỗ nội thất; hạt điều tại Ấn Độ và tôn mạ phủ màu tại Thái Lan, Malaysia...
Như vậy, năm 2013, không nên chú trọng quá vào việc "xuất siêu" hay "nhập siêu", mà trên hết cần xây dựng và phát triển năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc xuất khẩu các sản phẩm thiên về thế mạnh như lúa gạo, cà phê, thủy sản... nhất thiết phải được tiếp cận bằng chiến lược hiệu quả nhằm mang về thặng dư cao cho người sản xuất và nền kinh tế quốc gia.

Luồng gió mới: Bùng nổ cà phê "to go"

Trước sự đổ bộ ồ ạt của các thương hiệu cà phê ngoại, những nhà đầu tư Việt vẫn tự tin "nước sông không phạm nước giếng" vì thị trường vẫn còn khá rộng. Chị Dung cho biết thêm: "Các thương hiệu nước ngoài đánh vào thị trường có thu nhập cao. Trong khi đó, chúng tôi phục vụ cho thị trường có thu nhập trung bình. Và phân khúc thị trường này khá lớn".
Các thương hiệu cà phê mang đi (ngoại và nội) bắt đầu xuất hiện với mật độ dày hơn, tạo nên một thị trường kinh doanh đầy sôi động.
Tiềm năng thị trường Việt
Chị Huỳnh Thị Thanh Nga bán cà phê vỉa hè trên đường Hàn Hải Nguyên (TP.HCM) nhận xét: trước đây, người ta uống cà phê theo gu, vị cà phê phải mạnh đến mức độ nào đó mới thấy ngon. Còn giới trẻ, dân văn phòng hiện nay một bộ phận có xu hướng uống cà phê để giải khát.
Cà phê pha kiểu ngoại có lượng cafein ít, có thể uống nhiều lần trong ngày, phong cách thời thượng nên được chuộng. Nếu nói về hình thức mua mang đi thì các quán cà phê vỉa hè như của chị Nga đã có từ lâu.
Tuy nhiên, kể từ khi các thương hiệu cà phê ngoại như: Coffee Bean & Tea Leaf (Mỹ), Gloria Jean’s Coffees (Úc), Angel In Us (Hàn Quốc)… và mới đây nhất là Starbucks (Mỹ) du nhập vào Việt Nam thì cụm từ "to go", "take away" (mang đi) ngày càng thông dụng hơn.
Cà phê ngoại đánh vào đối tượng khách hàng là những người trẻ, thích khám phá, tiếp thu những thứ mới lạ, mà lực lượng này chiếm khoảng phân nửa dân số.
Theo thống kê của Tổ chức cà phê Quốc tế (ICO), từ năm 2008 - 2011, lượng cà phê được tiêu thụ tại Việt Nam tăng 65%. Riêng năm 2010, mức tăng trưởng là 31% so với các nước trên thế giới.
Điều này cho thấy, tiềm năng tiêu thụ cà phê ở Việt Nam khá cao. Không chỉ người nước ngoài, các nhà kinh doanh Việt Nam cũng dần nhận ra tiềm năng của thị trường này. Những thương hiệu cà phê Việt bắt đầu xuất hiện.
Kể từ khi Passio khai trương cửa hàng đầu tiên vào tháng 12/2006, đến nay đơn vị này đã phát triển thành chuỗi 10 cửa hàng. Thương hiệu Effoc xuất hiện vào tháng 8/2008 trên một chiếc xe nhỏ, nay đã thành chuỗi 5 cửa hàng.
Một loạt các "kios" cà phê khác như: Freddo Coffee, Urban Station Coffee, Cactus, Buzz… cũng lai rai xuất hiện.
Mới nhất là thương hiệu cà phê La Fontaine vừa khai trương cửa hàng đầu tiên trên đường Hai Bà Trưng (Q.1), TP.HCM vào ngày 20/1/2013 và chỉ 3 tuần sau đó khai trương tiếp cửa hàng thứ hai tại quận 5. La Fontaine dự định trong năm 2013 sẽ phát triển thành chuỗi 10 cửa hàng tại các quận 2, Tân Bình…
Chị Trần Thị Phương Dung, Giám đốc chuỗi cà phê La Fontaine cho biết: "Chúng tôi dự định đầu tư ồ ạt để có thể thắng tại thị trường nhà. Với kế hoạch "phủ sóng" cả nước, hiện chúng tôi tập trung phát triển thương hiệu tại TP.HCM trước. Chúng tôi mơ ước làm nên thương hiệu tại chính thị trường Việt Nam".
Trước sự đổ bộ ồ ạt của các thương hiệu cà phê ngoại, những nhà đầu tư Việt vẫn tự tin "nước sông không phạm nước giếng" vì thị trường vẫn còn khá rộng. Chị Dung cho biết thêm: "Các thương hiệu nước ngoài đánh vào thị trường có thu nhập cao. Trong khi đó, chúng tôi phục vụ cho thị trường có thu nhập trung bình. Và phân khúc thị trường này khá lớn".
Cạnh tranh bằng giá và thương hiệu?
So với những quán cà phê ngồi tại chỗ hoặc sân vườn cần có mặt bằng rộng, số vốn đầu tư cao và lượng nhân sự nhiều thì chi phí cho một kios cà phê "to go" không bị gánh các chi phí đó.
Vốn đầu tư ban đầu không đòi hỏi quá nhiều, khoảng 200 triệu đồng cho một kios có khoảng 10 chỗ ngồi và từ 100 - 150 triệu đồng cho một kios không có chỗ ngồi.
Điều này cho thấy, mở một kios cà phê "to go" không quá khó, có lẽ vì vậy mà các ông chủ, bà chủ của những thương hiệu cà phê Việt đa số là sinh viên hoặc những người trẻ đang khởi nghiệp.
Theo thống kê của Tổ chức cà phê Quốc tế, từ năm 2008 - 2011, lượng cà phê được tiêu thụ tại Việt Nam tăng 65%
Trong khi các thương hiệu ngoại đánh vào phân khúc thu nhập cao, có giá trung bình từ 60.000 - 100.000 đồng/ly thì các thương hiệu Việt hướng đến giới học sinh, sinh viên và văn phòng nên giá thấp hơn từ 30 - 50%.
Như Effoc giá chỉ từ 20.000 đồng, Buzz có giá từ 18.000 - 27.000 đồng, Cactus từ 12.000 - 30.000 đồng, La Fontaine giá trung bình 30.000 đồng, Urban Station từ 16.000 - 27.000 đồng.
Vì vậy, tại phân khúc trung bình này là cuộc chiến giữa các thương hiệu nội với nhau.
Đại diện một thương hiệu cà phê to go Việt tiết lộ: "Trước đây cửa hàng chỉ bán được 40 ly/ngày. Hiện nay, mỗi ngày bán được khoảng 200 ly. Nếu mở thêm cửa hàng và áp dụng chương trình khuyến mãi, doanh số chắc chắn sẽ tăng nhiều".
Sau giá, hương vị là yếu tố để các thương hiệu cạnh tranh với nhau. Nếu như Passio, Freddo, Buzz, Effoc, Urban Station… cạnh tranh nhau bằng cách mang đến hương vị cà phê Ý với cappucino, latte, mocha và các loại thức uống được pha chế theo phong cách riêng như: ice blended, yogurt, chocolate xay, whipping cream, smoothie, coffee xay, frappuccino… Thương hiệu sinh sau đẻ muộn La Fontiane cạnh tranh bằng hương vị kết hợp Việt - Pháp và đặc trưng là loại cà phê pha chế có thêm… đông trùng hạ thảo!
Một yếu tố không kém phần quan trọng trong loại hình kinh doanh dịch vụ là thái độ phục vụ của nhân viên. Một số cửa hàng cà phê đã phải âm thầm đóng cửa sau một thời gian ngắn vì huấn luyện đội ngũ nhân viên chưa tốt.
Chị Nguyễn Thị Nguyên Thảo, nhân viên văn phòng ở quận 3 kể, có lần vào một tiệm cà phê mang đi trên đường Đinh Tiên Hoàng thì nhân nhân viên ở đây phục vụ không lịch sự khi chị chỉ mua một ly. Cửa hàng đó sau này đã đóng cửa.
Chị nói: "Nếu hương vị ngon, giá rẻ mà phục vụ không tốt thì khách hàng cũng sẽ bỏ đi nơi khác. Tôi bỏ tiền ra mua một món hàng thì ít ra phải được nhận một thái độ lịch sự từ người bán".
Tuy không công khai, nhưng một số thương hiệu cà phê "to go" đều không giấu tham vọng hướng tới mở rộng thương hiệu theo hình thức nhượng quyền. Đây mới là bước đột phá cho cà phê "to go". Tuy nhiên, theo những người trong giới kinh doanh, các thương hiệu này vẫn còn chưa đủ lực để triển khai đến mức độ kinh doanh này.

Chia sẻ với bạn về việc gỡ khó ở thị trường gần

Cùng với Trung Quốc, vài năm trở lại đây, Campuchia trở nên quá quen thuộc, thậm chí trở thành "sân sau" của nhiều DN Việt Nam. Chưa có thống kê chính thức nào về thị phần hàng Việt Nam tại Campuchia, nhưng theo ông Nguyễn Thanh Phong, một chuyên gia có hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc tại thị trường này thì khoảng 70% doanh số bán sản phẩm tiêu dùng tại Campuchia là của Việt Nam, chỉ những số mặt hàng như đường, gạo, sữa là chưa thể cạnh tranh với hàng Thái Lan.
Chất lượng sản phẩm Kềm Nghĩa đánh bật hàng Trung Quốc - Ảnh: Quý Hòa
Chính ngạch vào Trung Quốc
Trong khi nhiều mặt hàng của Việt Nam đang phải "đánh vật" với hàng Trung Quốc ngay trên sân nhà thì Kềm Nghĩa vẫn "ung dung tự tại" với mức doanh thu tăng trưởng trên 15%. Không chỉ thế, sản phẩm của Kềm Nghĩa đang được tiêu thụ khá mạnh tại Trung Quốc dù giá bán cao gấp 4 lần kềm của DN Trung Quốc.
Để tiếp tục quảng bá thương hiệu tại thị trường này, Kềm Nghĩa đã đầu tư không ít cho việc quảng cáo cũng như bán hàng. Hàng loạt pano quảng cáo Kềm Nghĩa đã có mặt ở nhiều thành phố lớn của Trung Quốc. Hiện, sản phẩm Kềm Nghĩa đã có vị trí khá vững tại hệ thống các cửa hàng, chợ ở Trung Quốc và đang từng bước tiếp cận kênh siêu thị.
Trong lĩnh vực nông sản, Vinamit là cái tên "hot" tại Trung Quốc hiện nay. Các sản phẩm của Vinamit không chỉ có mặt ở các cửa hàng, đại lý của Trung Quốc mà còn vào sâu trong kênh siêu thị. Ông Nguyễn Lâm Viên, Chủ tịch HĐQT Công ty Vinamit, cho biết, hàng của Công ty đã có mặt ở hầu hết các siêu thị của Trung Quốc.
Bình quân mỗi tháng, Vinamit xuất sang Trung Quốc từ 30 - 50 container sản phẩm chế biến từ nông sản như mít sấy, khoai lang sấy, khoai môn sấy... Không chỉ "đánh" thị trường Trung Quốc bằng sản phẩm của Vinamit, năm 2012, ông Viên đã làm đầu mối để giúp các DN khác đưa hàng vào nước này.
Không đi bằng tiểu ngạnh, ông Viên chọn đường chính ngạch, đưa hàng thẳng vào các siêu thị của Trung Quốc. Bởi, theo ông, đưa hàng vào các siêu thị Trung Quốc khá dễ, thậm chí, dễ hơn nhiều so với đưa hàng vào các siêu thị Việt Nam.
"Các siêu thị nước ta nhỏ nên không có "nhiều đất để chen chân" trong khi các siêu thị Trung Quốc khá lớn. Muốn vào siêu thị Trung Quốc, DN chỉ cần đóng mã vạch từ 500 - 1.000 tệ, đưa hàng hóa trước 20 - 30 ngày để họ kiểm tra về mã vạch, các yếu tố vi sinh... là được", ông Viên nói.
Một lý do nữa khiến hàng Việt dễ xuất sang Trung Quốc vì người tiêu dùng của nước này cũng có tâm lý "sính ngoại" như số đông người tiêu dùng Việt Nam. Vì thế, sản phẩm của Việt Nam cũng được xem là hàng ngoại nên rất được ưa chuộng tại nước này.
Tuy Việt Nam nhập siêu nhưng hiện tại, hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc không phải là ít. Chiếm nhiều nhất tại thị trường này là các mặt hàng nông sản chế biến như: cao su, cà phê, kẹo dừa, bánh đậu xanh, hạt điều..., trong đó, chỉ riêng cà phê, kẹo dừa mỗi tháng đã có đến 3.000 tấn.
Tuy nhiên, điều đáng buồn là hàng Việt Nam chủ yếu xuất tiểu ngạch nên DN Việt không thể quản trị được thị trường. Người mua lớn sẽ phân phối qua nhiều tầng nấc trung gian khác khiến giá bán đội lên cao còn người mua nhỏ thì bán giá thấp hơn khiến thị trường bị loãng.
Hơn nữa, hàng xuất tiểu ngạch là hàng trốn thuế nên DN không thể tiếp cận được kênh bán lẻ hiện đại. "Vì vậy, vào Trung Quốc nên đi đường chính ngạch, đóng thuế đàng hoàng và vào thẳng các siêu thị”, ông Viên khuyên.
Và một khi đã chọn kênh phân phối hiện đại, DN phải có những mặt hàng khác biệt so với những mặt hàng đã xuất qua đường tiểu ngạch. Bởi, giá bán ngay cửa khẩu, bằng đường tiểu ngạch chỉ bằng 50% so với giá bán tại các siêu thị của nước này.
Mở rộng "Sân sau" Campuchia
Cùng với Trung Quốc, vài năm trở lại đây, Campuchia trở nên quá quen thuộc, thậm chí trở thành "sân sau" của nhiều DN Việt Nam. Chưa có thống kê chính thức nào về thị phần hàng Việt Nam tại Campuchia, nhưng theo ông Nguyễn Thanh Phong, một chuyên gia có hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc tại thị trường này thì khoảng 70% doanh số bán sản phẩm tiêu dùng tại Campuchia là của Việt Nam, chỉ những số mặt hàng như đường, gạo, sữa là chưa thể cạnh tranh với hàng Thái Lan.
Trong lĩnh vực cung cấp các sản phẩm cho nông nghiệp, Công ty Phân bón Bình Điền xem Campuchia là thị trường nước ngoài không thể thay thế. Ông Lê Quốc Phong, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Công ty CP Phân bón Bình Điền, cho biết, trong khi tăng trưởng của Công ty tại Việt Nam năm 2012 chỉ đạt khoảng 10% thì tại Campuchia đã tăng 100% so với năm trước.
Có những thời điểm, Công ty không đủ hàng để cung ứng. Theo ước tính, sau nhiều năm thâm nhập thị trường Campuchia, thị phần phân bón của Bình Điền chiếm khoảng 50% - 60% tại nước này.
Không chỉ có Bình Điền, cuối năm 2009, Tập đoàn Quốc tế Năm Sao cũng đã đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất phân bón tại Campuchia với vốn đầu tư 80 triệu USD, công suất 350 ngàn tấn/năm, và đến cuối năm 2012, nhà máy này đã chính thức được vận hành.
Theo ông Nguyễn Văn Mười, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Quốc tế Năm Sao, với thị trường rộng lớn như Campuchia (80% là nông nghiệp) nên triển vọng thành công là rất cao. Với công suất 350 ngàn tấn (giai đoạn 1), nhà máy có thể cung ứng 40% thị phần phân bón tại Campuchia.
Chưa chiếm thị phần lớn tại Campuchia như Bình Điền, hay đầu tư lớn như Năm Sao, nhưng Đại Đồng Tiến cũng đã tạo "cú hích" tại đây. Năm 2009, Đại Đồng Tiến bắt đầu đưa hàng qua thị trường này thông qua các hội chợ, các chương trình xúc tiến thương mại. Nhận thấy tiềm năng thị trường còn rất lớn, năm 2010, Đại Đồng Tiến quyết định xây dựng hệ thống đại lý tại Campichia.
Chỉ sau một năm chính thức thâm nhập thị trường này, doanh thu của Công ty đã tăng 25 lần, đạt 20 tỷ đồng trong năm 2011. Từ thành công này, Công ty thành lập văn phòng đại diện tại đây và đang lên kế hoạch xây dựng tổng kho để tạo độ phủ sản phẩm dày hơn.

Khám phá câu chuyện về thế Giới Di Động và bài toán tăng doanh thu

Ông Nguyễn Đức Tài, Tổng Giám đốc Thế Giới Di Động, cho biết CDH là quỹ đầu tư lớn và đã đầu tư vào nhiều doanh nghiệp bán lẻ điện máy và viễn thông ở châu Á. Ông cho biết CDH sẽ có mặt trong Hội đồng Quản trị để tư vấn chiến lược và kết nối Thế Giới Di Động với các đối tác lớn trong khu vực.
Năm 2013, Thế Giới Di Động đặt mục tiêu tăng hơn 20% doanh thu trong khi họ không tiếp tục mở rộng thêm nhiều cửa hàng nữa. Không thể tăng doanh thu bằng cách phình quy mô, chuỗi bán lẻ điện thoại sẽ làm thế nào để đảm bảo chỉ tiêu?
Ông Trần Kinh Doanh, Giám đốc Phát triển Kinh doanh Công ty Thế Giới Di Động, cho biết doanh thu tăng từ 6.100 tỉ đồng lên 7.500 tỉ đồng là một thách thức lớn. Do đó Thế Giới Di Động chọn cách sắp xếp lại cửa hàng để thu hút khách hàng nhanh nhất và hiệu quả nhất.
Chuỗi bán lẻ này đã hợp tác với Samsung trong dự án hàng chục tỉ đồng, xây dựng các khu trải nghiệm smartphone ngay trong cửa hàng.
“Tỉ suất sinh lời của cả điện thoại thông thường và smartphone nói chung khoảng 14-16%, nhưng chúng tôi chọn điện thoại thông minh vì đây là cái khách hàng đang cần”, ông Doanh cho biết.
Bên cạnh đó, Thế Giới Di Động cũng kỳ vọng vào đối tác mới.
Ngày 20/3/2013, Mekong Capital công bố Quỹ Mekong Enterprise Fund II đã hoàn tất việc thoái vốn một phần khoản đầu tư vào Thế Giới Di Động. Theo Mekong Capital, thu nhập từ số cổ phần vừa bán (cộng với cổ tức đã nhận) đạt gấp 11 lần so với khoản đầu tư ban đầu của Quỹ vào năm 2007.
Sau giao dịch, tỉ lệ sở hữu của Quỹ tại Thế Giới Di Động giảm từ 32,5% xuống còn 25,8%. Khi Mekong Capital thoái bớt một phần vốn thì 5 cổ đông sáng lập cũng bán đi hơn 12% cổ phần.
Lượng cổ phần của Mekong Capital được chuyển nhượng cho một nhà đầu tư có kinh nghiệm phát triển chuỗi bán lẻ nổi tiếng trên thế giới là CDH Electric Bee Limited.
Cơ cấu cổ đông Thế Giới Di Động hiện nay
Ông Nguyễn Đức Tài, Tổng Giám đốc Thế Giới Di Động, cho biết CDH là quỹ đầu tư lớn và đã đầu tư vào nhiều doanh nghiệp bán lẻ điện máy và viễn thông ở châu Á. Ông cho biết CDH sẽ có mặt trong Hội đồng Quản trị để tư vấn chiến lược và kết nối Thế Giới Di Động với các đối tác lớn trong khu vực.
Trước đây, một đối thủ của Thế Giới Di Động là Viễn Thông A cũng bán một phần cho TD Mobile, nhà bán lẻ di động hàng đầu của Nhật.
Sau khi có sự tham gia của đối tác này, Viễn Thông A xây dựng những trung tâm smartphone và liên tục tăng trưởng doanh số. Đến nay, Viễn Thông A đã có 36 trung tâm smartphone với sự hợp tác của hầu hết các nhà sản xuất điện thoại lớn để phục vụ khách hàng.
Có điều, trong khi đối tác ngoại của Viễn Thông A là doanh nghiệp cùng ngành viễn thông, thì đối tác của Thế Giới Di Động lại chỉ là một nhà đầu tư tài chính. Việc tham gia hoạch định chiến lược có lẽ không phải là sở trường của họ.
Trong lúc này, thị trường điện thoại di động đang đứng trước thách thức lớn. Theo ông William Hamilton-Whyte, Giám đốc Điều hành Văn phòng đại diện Nokia tại Việt Nam, thị trường điện thoại di động Việt Nam đã bão hòa và chỉ còn tăng trưởng nhờ vào sự thay mới của người dùng.
Từ mức tăng trưởng mỗi năm khoảng 15-20% những năm trước, năm 2012, mức tăng trưởng của thị trường điện thoại di động Việt Nam chỉ còn 10%. Dự báo năm 2013, con số sẽ không khá hơn. Đó sẽ là một thách thức nữa cho Thế Giới Di Động trong tham vọng tăng trưởng doanh thu.